NT-Nuôi tôm trong bể xi măng, tỷ lệ thành công đạt 95%
Mô hình nuôi tôm trong bể xi măng do Trường Đại học Trà Vinh thực hiện giảm được 20% chi phí thức ăn, tôm phát triển nhanh
2020-10-26 11:54:20
Nuôi ghép tôm sú và rong đỏ
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Applied Phycology ngày 23/9 về hiệu quả nuôi ghép tôm sú (Penaeus monodon) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata) với các mật độ khác nhau để thấy được sự ảnh hưởng đến chất lượng nước, hiệu suất hậu ấu trùng và khả năng chống lại Vibrio parahaemolyticus của chúng.
Việc tích hợp rong biển (các loài khai thác, ít dấu chân) vào các hệ thống NTTS đã được coi là một cách tiếp cận thay thế cho sự phát triển bền vững của ngành tôm, nhằm mở rộng theo hướng thân thiện với môi trường. Hai thí nghiệm liên tiếp được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của việc tích hợp các mật độ khác nhau của tôm sú (Penaeus monodon) post - ấu trùng (PL) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata) đến chất lượng nước và năng suất tôm trong giai đoạn ương.
Thử nghiệm đầu tiên bao gồm thiết kế mật độ nuôi kết hợp theo tỷ lệ 3×4: với ba mức độ nuôi tôm mật độ (1.000; 2.000 và 3.000 PL/m3) và bốn mức mật độ thả rong biển đỏ (0, 1, 1,5 và 2 kg/m3) được phân bổ ngẫu nhiên trong bể ba lần trong 30 ngày. Tôm PL (với trọng lượng trung bình 0,012 ± 0,002 g và chiều dài 1,12 ± 0,09 cm) và rong biển đỏ được nuôi trong bể 150 L ở độ mặn 15 g/l (15‰). Tác động hiệp đồng đáng kể giữa mật độ tôm và rong biển đã được quan sát đối với hàm lượng nitơ tổng số NO3− (TN) và PO43−, cũng như đối với tỷ lệ sống (p <0,05) và sản lượng của tôm (p <0,01).
Sự kết hợp của tôm và rong biển đỏ làm giảm đáng kể nồng độ nitơ và phốt pho trong bể nuôi và tăng cường tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm. Đặc biệt, mật độ nuôi tăng dẫn đến năng suất tăng trưởng kém hơn nhưng sản lượng được nâng cao. Áp dụng mật độ thả 1.000 và 2.000 PL/m3 thu được kích thước tôm lớn hơn, trong khi mật độ 3.000 PL/m3 đạt sản lượng sản xuất cao nhất trong hệ thống tích hợp.
Trong thử nghiệm thứ hai, sau thử nghiệm tăng trưởng 30 ngày, chất lượng tôm được đánh giá thông qua thử nghiệm ngâm nước bằng cách sử dụng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh (nồng độ 2×108CFU/ml) trên các nhóm tôm được thả trước đó với mật độ 3.000 PL/m3 và tích hợp với các số lượng rong biển khác nhau. Sau 14 ngày thử thách, tỷ lệ chết tích lũy trong hệ thống nuôi độc canh trung bình là 75,6%, cao hơn đáng kể (p <0,05) so với các nhóm nuôi ghép (17,8 - 31,1%).
Kết luận, việc tích hợp tôm sú và rong đỏ đã cải thiện chất lượng nước bể nuôi cũng như tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm; đồng thời tăng cường hoạt tính kháng khuẩn của tôm chống lại sự nhiễm Vibro parahaemolyticus trong giai đoạn ương.
Ngọc Ngọc
Theo contom.vn
Mô hình nuôi tôm trong bể xi măng do Trường Đại học Trà Vinh thực hiện giảm được 20% chi phí thức ăn, tôm phát triển nhanh
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài quan trọng trong nuôi trồng thủy sản. Đến nay, công nghệ chọn giống nhân tạo tôm sú đã được ứng dụng vào thực tế...
Chiết xuất mực được lấy từ túi mực ống giúp tôm thẻ chống lại mầm bệnh phân trắng cũng như kích thích hệ thống miễn dịch của tôm.
Dẫn nguồn nước vào ao nuôi đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần nắm vững kỹ thuật để xử lý được nguồn nước vào.
Câu hỏi đặt ra cho người nuôi thuỷ sản đó là, mục đích của việc dùng kháng sinh lần này, đợt này là gì? Bà con phòng bệnh, hay trị bệnh?
Hiện nay, mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến kết hợp đang được áp dụng rộng rãi do phù hợp với khả năng đầu tư của nhiều nông dân...
Bài viết này sẽ đưa ra giải pháp để quản lý và xử lý nước thải từ hệ thống ao nuôi tôm thâm canh, đảm bảo nguồn nước sau khi đi qua hệ thống...
Độ mặn của nước rất quan trọng, ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại, phát triển và giúp duy trì các chức năng sinh lý, sinh trưởng của tôm
Không chỉ là tăng thu nhập cho nông hộ mà nuôi ghép tôm sú và cá chẽm còn là hình thức nuôi giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hướng tới nghề nuôi...
Mô hình nuôi cua kết hợp tôm sú vẫn có hiệu suất đầu tư đạt lợi nhuận cao đối với con tôm là trên 55%, cua là 60%.